Thứ Ba, 2 tháng 2, 2016

Sức Mạnh Của Ðức Tin


    Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một ngày chủ nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện.  đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa.
Thánh Augustinô đã nói như sau: "Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin".
Trong câu chuyện trên đây, mọi người tham gia buổi cầu nguyện xin trời đổ mưa đều là những người có lòng tin nhưng người duy nhất nhận được phần thưởng của lòng tin là em bé trai cầm theo chiếc dù để trú mưa. Lắm khi trong cuộc sống đức tin, chúng ta tưởng mình tin, nhưng kỳ thực chúng ta chưa dám thể hiện những cử chỉ đích thực của lòng tin. Ðúng hơn, niềm tin của chúng ta chưa đủ mạnh được thể hiện bằng những hành động cụ thể đòi hỏi nhiều hy sinh và từ bỏ. Một em bé cầm dù giữa đám đông, đó là hình ảnh của những đòi hỏi của đức tin và chính hình ảnh của ông lão Simêon cùng nữ ngôn sứ Anna ao ước được nhìn thấy Đấng Cứu độ đã nói lên sức mạnh của niềm tin trong đoạn Phúc Âm sau :

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Ðấng Kitô của Ðức Chúa. Ðược Thần Khí dun dủi, ông lên Ðền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi 
Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ítraen Dân Ngài.
Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.”
Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Ðền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ gặp ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
 http://www.giaophanbaria.org/chia-se-loi-chua/hang-ngay-theo-chu-de/loi-chua-hang-ngay/2016/02/02/thu-ba-dang-chua-giesu-trong-den-thanh.html#.VrBqZlJ3tKY
 
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ. Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ. Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
 Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa. Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25), người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27). Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy, Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình. Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa. Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.

Lạy Chúa , để gặp được Chúa như ông lão Simêon và Cụ bà ngôn sứ Anna , chúng con xin Chúa ban cho chúng con có lòng mong ngóng, sống đời sống đẹp lòng Chúa , luôn mến Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo để sống hoàn toàn theo ý Chúa từ bây giờ và mãi mãi về sau . Amen .

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016

Trừ Quỷ



Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm thuê ruộng đất của Quỷ. Quỷ đối với người ngày càng quá tay. Chúng dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do chúng nghĩ ra là "ăn ngọn cho gốc". Người không chịu. Chúng dùng áp lực bắt phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý.
Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như lời Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước: "Ăn ngọn cho gốc".
Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy những gánh khoai lang chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhai nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng đành cứng họng không chối cãi vào đâu được.
Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là "Ăn gốc cho ngọn". Phật bảo người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo người về nhà, còn rạ phó mặc cho Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng tuyên bố "Ăn cả gốc lẫn ngọn". Lần này Quỷ nghĩ:
- Cho chúng nó muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao.
Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp mọi nơi mọi chỗ.
Năm ấy có một lần nữa, Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần quỷ lại bị một vố cay chua, uất ức hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả tất cả ruộng đất không cho làm thuê nữa. Trong bụng chúng nghĩ:
- Thà không được cái gì cả, còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình.
Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre có mắc một chiếc áo cà sa trên ngọn, bóng cà sa che bao nhiêu diện tích ở mặt đất thì là đất của Người sở hữu ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu ít mà giá rất hời bèn nhận lời:
- Ồ! Bằng chiếc áo cà sa có là bao nhiêu.
Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ước: Ngoài bóng tre là đất của Quỷ, trong bóng tre là đất của Người.
Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay toả ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hoá phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên đất trời trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế; mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất của chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa, phải chạy ra biển đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Ðông.
Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó, ngao, bạch xà, hắc hổ, v.v… rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người làm quân của Quỷ không tiến lên được.
Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Ðối lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ : máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.
Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật, Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó, sợ hoảng hồn bỏ chạy.
Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân địch. Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi, nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.
Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đày ra biển đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được hai ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại hứa cho.
Vì thế, hàng năm cứ đến ngày tết Nguyên Ðán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mới hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy với sự thông minh và khôn khéo Phật đã đuổi Quỷ ra khỏi đất liền . phải chạy ra biển Đông , cũng cùng một công việc trừ Quỷ nhưng Đức Giê-su Ki-tô để chữa cho một người bị quỷ nhập , chỉ  qua một lời phán đã đuổi cả một đạo binh Quỷ xuất khỏi người bị quỷ ám đã được ghi lại qua đoạn Phúc âm sau :

Khi ấy, Ðức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghêrasa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. Thật vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được. Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình. Thấy Ðức Giêsu tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: “Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!” Thật vậy, Ðức Giêsu, đã bảo nó: “Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!” Người hỏi nó: “Tên ngươi là gì?” Nó thưa: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm.” Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy. Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. Ðám thần ô uế nài xin Người rằng: “Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia.” Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo – chừng hai ngàn con – từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó. Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra. Họ đến cùng Ðức Giêsu và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo – chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ. Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và chuyện bầy heo. Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Ðức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.
 http://www.giaophanbaria.org/chia-se-loi-chua/hang-ngay-theo-chu-de/loi-chua-hang-ngay/2016/02/01/thu-hai-tuan-4-thuong-nien.html#.Vq9i2FJ3tKY

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và thần ô uế cho chúng ta thấy quyền lực của quỉ thần trên con người. Có lúc người bị quỉ ám xưng mình là tôi: "Lạy ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!" Có lúc, anh xưng mình là chúng tôi: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm.” Một đạo binh của quân đội Rôma có khỏang 6,000 binh lính; điều này xác định con người có thể bị giam giữ bởi rất nhiều quỉ thần. Việc quỉ thần xin cho nhập vào đàn heo có khỏang chừng 2,000 con cũng là một bằng chứng cho thấy số đông của quỉ thần.
Thế nhưng , với một phép lạ như thế, một người chờ đợi dân làng sẽ mừng vui và mời Chúa Giêsu ở lại với họ; nhưng phản ứng của dân Gerasa hoàn toàn ngược lại. Họ không muốn thay đổi vì đã quá quen với quỉ thần: “Họ đến cùng Đức Giêsu và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo, chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ.” Thay vì phải sợ quyền lực của quỉ thần, họ sợ Người có quyền lực trên quỉ thần! Họ coi của cải vật chất hơn linh hồn con người: Họ không muốn phải hy sinh của cải vật chất, cho dù cứu được một mạng người. Họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.

 Lạy Chúa Giê-su , xin cho chúng con nhận biết được quyền năng của Thiên Chúa, xin cho chúng con có một đức tin vững mạnh để chúng con chiến đấu chống lại kẻ thù tội lỗi , để chúng con có thể đứng trước những gian nan của cuộc đời; xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng với bản thân , với mọi người và nhất là với Lòng thương xót của Thiên Chúa .Amen ,


Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

Lễ Tuyên hứa của Tân Giáo Lý viên - Giáo xứ Ngọc Hà

Lễ Tuyên hứa của Tân Giáo lý viên - Giáo xứ Ngọc Hà

" Việc truyền đạt giáo lý luôn luôn được Hội Thánh coi là một trong những nhiệm vụ tối quan trọng của mình , vì trước khi lên cùng Cha Người , Đức Ki-tô Phục sinh đã ban cho các tông đồ một huấn lệnh sau cùng : Làm cho mọi dân tộc trở nên môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền .  " Đây cũng chính là  chỉ thị trong tông huấn Đức thánh Giáo Hoàng Gioan- Phao-lô II truyền đạt mà Linh mục Phê-rô Trần Thanh Sơn Chánh xứ Giáo xứ Ngọc Hà đã nhắn nhủ cùng 7 Giáo lý viên thực hiện nghi thức Tuyên hứa trong Thánh lễ được tổ chức vào lúc 7 giờ ngày 31/01/2016  tại Nhà thờ Giáo xứ Ngọc Hà .

Nghi thức Tuyên hứa của 7 Giáo lý viên được cử hành hết sức trang nghiêm và đầy ý nghĩa sau bài giảng của Cha Chánh xứ .
Bước đấu nghi thức  người phụ trách xướng danh 7 giáo lý viên bước lên Thánh đường trình diện Cha Xứ và Cộng đồng.
Tiếp đến Cha Xứ tra vấn , các Giáo lý viên đã thể hiện sự quyết tâm nhận trách nhiệm phục vụ Lời Chúa qua hành động quỳ gối , giơ tay phải lên trước mặt và đọc lời cam kết . Sau đó , Cha Xứ hân hoan  chấp nhận và nhắn chủ , chúc lành cho 7 tân giáo lý viên .
Sau tuyên hứa của các Tân Giáo lý viên , Cha Xứ đã trao Chứng thư , khăn quàng và Kinh Thánh để chứng nhận tư cách , sự dấn thân trở thành người loan báo Lời Chúa của các Tân Giáo lý viên . Từ đây , Các Tân Giáo lý viên sẽ đặt mọi suy tư , lời rao giảng và ngay cả cuộc sống của mình dưới sự hướng dẫn của Lời Chúa .
Cuối cùng là nghi thức lập lại lời hứa hàng năm của gia đình giáo lý viên bao gồm 18 người .
Sau nghi thức tuyên hứa của Giáo lý viên , Thánh lễ tiếp tục với phần Phụng vụ Thánh Thể. Sau khi hiệp lễ , Cộng đồng cùng gia đình Giáo lý viên đã cùng hiệp nhau dâng lên Thiên Chúa bài kinh của giáo lý viên , nguyện xin Thiên chúc lành cho các Giáo lý viên và công việc Huấn giáo .
Thánh lễ chấm dứt lúc 8 giờ 3o cùng ngày .Sự vui mừng hân hoan không chỉ thể hiện ở 7 Tân giáo lý viên mà còn lan tỏa khắp trên khuôn mặt của từng người trong cộng đồng cùng tham gia Thánh lễ ; vì từ đây ước nguyện được rao giảng Lời Chúa đã thành hiện thực , các Tân giáo lý viên sẽ dùng Lời Chúa như là ánh sáng , là ngọn đèn soi đường chỉ lối , là hành trang cho lữ khách đường trường trong cuộc sống mong manh và đầy tội lỗi để thay vào đó là cuộc sống trung thực , đầy tình yêu thương và bác ái như Tình yêu của Thiên Chúa .

Các Tân Giáo lý viên đọc lời cam kết
Cha Xứ trao khăn quàng cho các Tân Giáo lý viên
Cha Xứ trao Chứng thư cho các Tân Giáo Lý viên
Cha Xứ trao Kinh Thánh cho các Tân Giáo Lý viên
Gia đình Giáo lý viên lập lại lời hứa hàng năm